An Cát cười tươi, cảm thấy đây là một ý tưởng hay, vì cô thích con gái và Bạch Trà lại đáp ứng được tiêu chuẩn của cô với làn da trắng, vẻ đẹp và khí chất, cùng với đôi chân dài. Cô nghĩ rằng đây sẽ là một mối quan hệ tốt đẹp để từ từ phát triển tình cảm. Cô không mơ ước về chuyện tình yêu tự do ở đây, mà thấy việc xây dựng mối quan hệ lâu dài là điều hợp lý.
Bạch Trà ngạc nhiên và hoang mang trước lời nói của An Cát. Cô không ngờ An Cát lại đề xuất như vậy, và cảm thấy trong lòng mình không hề phản cảm với lời đề nghị này. Cô hiểu rằng An Cát cũng đã trải qua hoàn cảnh khó khăn tương tự như mình, vì vậy có thể An Cát nói ra những lời này từ sự đồng cảm.
Tuy nhiên, khi nhìn thấy vẻ mặt mơ màng của An Cát, Bạch Trà không khỏi nghi ngờ và tự hỏi có phải mình đã suy nghĩ quá nhiều không. Cô cảm thấy khó hiểu về việc một cô gái như An Cát lại có vẻ mặt quyến rũ như vậy.
Cửu cô nương đã loại bỏ những ý tưởng kỳ lạ trong đầu và không để ý đến An Cát. Cô quay trở lại phòng và tiếp tục thêu. Mặc dù công việc thêu của cô không mang lại nhiều tiền, nhưng ít nhất cũng giúp tăng thêm thu nhập cho gia đình. Vì vậy, cô đã kiên trì làm việc này mỗi ngày.
Khi đôi mắt khô khốc và môi hiện lên nụ cười khổ, Cửu cô nương biết rằng thời gian cô có để duy trì cuộc sống này không còn nhiều. Cô không thể đợi đến ngày sinh nhật mười tám tuổi để bị quan phủ ép buộc hôn phối và nộp phạt bạc, vì gia đình cô không đủ khả năng chi trả. Cô không biết phải bán đi những gì để có tiền mặt, chẳng lẽ lại phải bán hết hai mẫu đất của gia đình?
Dù sao, lời đề nghị của An Cát vẫn vang vọng trong đầu cô. Gả cho một nữ hộ để cùng sống chung cả đời, không thể sinh con cái...
An Cát, khi thấy Bạch Trà không phản ứng gì, đã cân nhắc rằng nếu Bạch Trà không từ chối ngay lập tức và không có dấu hiệu phản cảm, thì có thể vẫn có hy vọng. An Cát cảm thấy vui mừng và nghĩ rằng mình nên nỗ lực thêm để thành công. Dù không thành công, cô cũng không mất gì.
Sau bữa cơm, An Cát cắt khoai tây và khoai lang đã nguội thành những miếng nhỏ đều nhau và đưa ra ngoài ánh nắng để phơi. Đây là công việc hàng tháng của cô, để dự trữ thực phẩm cho những ngày sắp tới.
An Cát sống ở một khu vực thuộc miền Bắc, nơi mùa đông rất lạnh và thực phẩm trở nên khan hiếm. Nhà cô thường dự trữ thực phẩm bằng cách phơi nắng các loại thực phẩm như dưa và khoai tây. Cô tận dụng thời tiết nắng để phơi khô khoai lang và các loại thực phẩm khác, nhằm bảo đảm có đủ đồ ăn trong mùa đông.
Sau khi hoàn tất công việc chuẩn bị và thu hoạch thực phẩm, An Cát đã giặt sạch và phơi khô khoai lang. Cô cho các món đồ đã phơi khô vào giỏ, khóa lại và hướng về nhà thôn trưởng để giao.
Thôn trưởng của Đại Hà thôn là An Thịnh Tài, thuộc cùng dòng tộc với An Cát, cụ thể là bà con bối phận chín đời. Tức là, họ là những người có quan hệ gần gũi về mặt huyết thống, với An Thịnh Tài là người giữ chức thôn trưởng qua nhiều thế hệ.
Gia đình An Cát có nguồn gốc từ cùng tổ tiên với thôn trưởng, nhưng gia đình của An Cát không thường xuyên giữ vị trí quan trọng như chức thôn trưởng. Thay vào đó, gia đình An Cát thuộc tầng lớp nông dân, nơi mà việc học chữ không được coi trọng lắm, chủ yếu vì chi phí học tập quá cao. Để học chữ, người dân cần phải chi trả không chỉ học phí mà còn chi phí cho sách vở, như một quyển Tam Tự Kinh có giá lên đến ba bốn trăm văn, điều mà nông dân không thể chi trả được. Vì vậy, các gia đình chỉ đưa con cái đi học những năm đầu để có thể biết chút ít chữ, đủ để không bị lừa dối trong tương lai.