"Cảm ơn chủ quân."
"Cảm ơn gì chứ, đây là chuyện nên làm."
...
Phố Tây Vân Thành, tiệm may Nam Bắc vẫn luôn làm ăn phát đạt, là cửa tiệm lâu đời mười năm, danh tiếng ổn định, không treo biển hiệu nhưng lại rất được lòng dân thường và thương nhân.
Nói đến biển hiệu, không thể không nhắc đến chính sách triều đình hiện nay. Khi xưa, Bình Dương đế ban chiếu chỉ "trọng nông ức thương", trong đó có một điều: Các tiệm kinh doanh thịnh vượng có thể đến nha môn xin làm biển hiệu. Treo biển lên cổng, người mang hộ thương không được vào.
Vậy là các tiệm đua nhau đến nha môn đăng ký, nghĩ rằng được treo biển thì sẽ có quan phủ bảo hộ. Một thời, phong trào treo biển rộ lên, nhưng cũng nhanh chóng lụi tàn.
Các tiệm bình thường không kham nổi việc treo biển. Biển treo lên, thương nhân giàu có không thể vào tiêu tiền, người nông dân nghèo không đủ tiền mua sắm. Chỉ còn lại sĩ hộ và công hộ, làm giảm mạnh doanh thu, khiến nhiều cửa hàng phải đóng cửa.
Từ đó, các tiệm bình thường không còn treo biển nữa. Chỉ có những cửa tiệm tài chính dồi dào mới tiếp tục duy trì. Triều đình cũng điều chỉnh chính sách, nâng cao ngưỡng treo biển, lâu dần, treo biển trở thành biểu tượng của tiệm cao cấp.
Tiệm May Nam Bắc vốn có đủ điều kiện để làm thủ tục treo bảng, nhưng người chủ đằng sau lại rất sáng suốt, thà làm ăn với thương nhân và mất đi sự cao cấp, chứ không muốn lấy lòng sĩ tịch.
Phương Du cảm thấy người chủ này thật minh bạch. Bản chất của việc kinh doanh là kiếm tiền, mà sĩ tịch trong thiên hạ chỉ là số ít. Nếu vì cái gọi là "cao cấp" mà mất đi khách hàng, thì thật không đáng.
Lúc này, bà chủ của Tiệm May Nam Bắc đang chỉnh lại sổ sách, bỗng nghe thấy tiếng ngựa dừng lại bên ngoài. Bà nghiêng đầu nhìn thì thấy trước cửa dừng một chiếc xe ngựa lớn, kiểu dáng nhìn qua là biết dành cho sĩ tịch.
Tiệm may của họ dù có tiếng nhưng vì không treo bảng nên sĩ tịch thường không buồn đến đây. Nếu có, cũng chỉ là những sĩ tịch nghèo, không có bạc thì lên phố Đông đến cửa hàng gấm vóc Tinh Lâu.
Đang lấy làm lạ không biết là ai, thì thấy từ trên xe ngựa bước xuống một tiểu ca nhi trông rất quen mắt. Trong lòng bà thoáng căng thẳng, sợ mình nhìn lầm, ngay sau đó lại thấy từ trong xe ngựa thò ra một cái đầu:
“Ta đi qua bên kia trước, lát nữa lấy xong sổ sách sẽ quay lại đón em.”
Kiều Hạc Chi ngoan ngoãn gật đầu. Giờ cũng không còn sớm, vừa rồi hai người đã bàn bạc, một người đi đặt may áo đông, một người đi lấy sổ sách, như vậy có thể tiết kiệm chút thời gian để về nhà. Cậu chờ xe ngựa đi xa rồi mới quay vào tiệm.
Bà chủ vội bỏ sổ sách xuống, bước ra khỏi quầy đón tiếp:
“Kiều công tử! Đã lâu không thấy ngài ghé tiệm! Thật khéo, tiệm vừa mới nhập một lô vải đông đang thịnh hành.”
“Lần này là đến để đặt may áo đông cho hạ nhân. Không biết ta lâu rồi không đến, liệu tiệm còn giữ tình nghĩa với ta không đây?”
Bà chủ cười đáp: “Tiệm nhỏ này có thể làm ăn đến hôm nay, phần lớn là nhờ sự chiếu cố của Kiều công tử. Dù một năm nửa năm không ghé, tình nghĩa vẫn còn mãi.”
“Cảm ơn bà chủ.” Kiều Hạc Chi mỉm cười, nói: “Trong nhà cần gấp một lô áo đông, ta đã mang sẵn các kích thước đến đây rồi.”
Bà chủ nhìn qua tờ giấy kích thước Ti Vũ đưa, trong lòng đã tính toán xong:
“Kiều công tử cứ chọn vải đi. Tiệm vừa mới thuê thêm hai thợ thêu, áo đông công tử cần không đến nửa tháng là giao được.”
Kiều Hạc Chi vốn biết hiệu suất làm việc của Tiệm May Nam Bắc, nên chỉ gật đầu. Vừa vui mừng vừa ngại ngùng nói: “Lần này nhớ là giao đến Phương gia ở ngõ Ẩm Phong.”
“Đương nhiên rồi.” Bà chủ cười tươi: “Vừa rồi từ xa đã thấy Phương tú tài. Kiều công tử và tú tài tình cảm mặn nồng, thật sự là xứng đôi!”
Ngày Kiều gia gả tiểu ca nhi, quy mô tổ chức rất lớn, bà chủ nhà này cũng từng uống chén rượu mừng. Nghe nói chàng rể của Kiều gia chỉ là một tú tài thôn dã, chuyện này ở Vân Thành không hiếm, nên cũng không có gì lạ.