Hồi đó bố mẹ cô mỗi người đều đã tái hôn và có con riêng, chẳng ai quan tâm gì đến cô.
Mà cô thì người nhỏ bé, tính cách lại rụt rè, thường bị bạn nam ngồi cùng bàn bắt nạt, nhưng không dám kể với ai.
Không biết Tô Chí Lỗi nghe từ đâu, sau giờ tan học liền chặn thằng bé đó trước cổng trường dạy cho một trận, rồi cảnh cáo lũ con trai khác: “Đứa nào dám bắt nạt em gái tao, tao đánh cho không nhận ra mặt mình luôn!”
Lúc ấy Tô Chí Lỗi cao to, lại nghịch ngợm nổi tiếng trong trường, từ lần đó đến hết cấp 2 không ai dám động vào Tạ Thư Vân nữa.
Vì lý do này, dù không thân thiết với mẹ ruột, nhưng cô và Tô Chí Lỗi vẫn luôn giữ liên lạc.
Tạ Thư Vân nhắn lại: “Cảm ơn anh, trong canh có thịt đó, dinh dưỡng đầy đủ lắm.”
Chẳng bao lâu, Tô Chí Lỗi nhắn riêng: “Tương ớt trông ngon ghê, em tự làm à? Có dư không? Cho anh xin ít với.”
Sau khi Tô Chí Lỗi tốt nghiệp cấp 2 không thi lên cấp 3 mà đi học nghề ở trường kỹ thuật, chọn học làm đầu bếp.
Anh ấy cũng là người có chí tiến thủ. Sau khi tốt nghiệp, ban đầu đi làm thuê cho người khác, sau đó tự mình mở quán. Nhờ tay nghề nấu nướng tốt, lại thêm tính cách hào sảng, thích kết giao bạn bè nên quán làm ăn rất phát đạt. Hiện tại, anh lại khởi nghiệp lần nữa, nhân lúc thị trấn đang phát triển du lịch, tự thuê một mảnh đất trên núi mở trang trại sinh thái.
Tô Chí Lỗi là người nghĩa khí, có phần gia trưởng, rất quan tâm đến anh em trong nhà, đặc biệt là đối với Tạ Thư Vân thì càng chu đáo. Tuy vậy, anh cũng rất có chừng mực, không can thiệp quá nhiều vào cuộc sống của cô, cũng không tự ý quyết định thay cô, vì thế giữa hai người vẫn luôn giữ được mối quan hệ hòa thuận.
Tô Chí Lỗi thích ăn cay, mà Tạ Thư Vân lại làm nhiều tương ớt, vốn định gửi cho anh một hũ, nên liền trả lời: “Em chuẩn bị sẵn rồi, chiều em mang qua.”
Đến khi ngủ trưa dậy, Tạ Thư Vân liền lấy một hũ tương ớt khoảng 2 cân trong bếp, rồi cưỡi xe điện đến trang trại.
Cách làm tương ớt là do cô học từ bà nội.
Ớt đỏ tươi của địa phương vừa hái xong không rửa nước, chỉ dùng khăn lau sạch, rồi bỏ cuống, cắt nhỏ, sau đó đem xay bằng cối đá. Sau khi xay xong thì trộn muối vào ướp. Ướp hai ngày là ăn được, vừa tươi, vừa cay, vừa mặn lại vừa thơm, ăn với bánh bao, mì hay cơm trắng đều ngon tuyệt, là món khoái khẩu của bà nội Tạ.
Vốn dĩ Tạ Thư Vân không ăn được cay, vậy mà cũng bị bà dẫn dắt ăn quen món này.
Vì vậy trước kia bà nội luôn để giống, mỗi năm đều trồng rất nhiều loại ớt đỏ này.
Năm nay khi bắt đầu trồng trọt, Tạ Thư Vân không có kế hoạch rõ ràng, hễ tìm được hạt giống gì thì đem gieo cái đó.
Tình cờ cô tìm được túi hạt ớt do bà nội để lại, sợ để lâu không nảy mầm được nên gieo hết luôn.
Không ngờ tất cả đều nảy mầm, cô lại tiếc không nỡ nhổ bỏ, nên giữ lại trồng hết.
Giống ớt thịt dày truyền thống này càng chín càng đỏ và càng cay, bản thân cô cũng ít ăn, mà đem ra chợ thì lại không dễ bán.
Khi thấy ớt đỏ đã nhiều, cô liền hái hết mang đến cối đá trong làng xay làm tương ớt, định gửi cho dì và Tô Chí Lỗi mỗi người một ít.
Dù hai người họ không ăn thì quán ăn của họ cũng dùng được.
Từ khi Tạ Thư Vân về quê dưỡng bệnh, Tô Chí Lỗi từng mấy lần mang thịt heo nhà làm đến cho cô, nói là thịt lợn tự nuôi trong trang trại, và nhất quyết không lấy tiền.
Mà rau cô trồng thì trang trại của Tô Chí Lỗi cũng có nên anh cũng không nhận của cô.
Cô không có gì đặc biệt để đáp lễ, nên lần này khi Tô Chí Lỗi chủ động hỏi xin tương ớt, trong lòng cô lại thấy vui.
Dù điều kiện của Tô Chí Lỗi tốt, không ngại cho Tạ Thư Vân nhiều thứ, nhưng cô không thích bị nhận không quá nhiều như vậy.
Bởi lẽ, trong chuyện giao thiệp giữa người với người, có cho có nhận thì mới lâu bền.