“Không phải ép dầu, mà là nước ngao luộc ra,” Giang Doanh Tri nói.
Tiểu Mai “ồ” một tiếng, tuy trong lòng có chút thất vọng, nhưng cô bé cũng không nói gì, tránh làm mất hứng.
Ngược lại, cô bé vội gọi: “Hải Oa, đừng sờ ốc nữa, đệ mau đến đây cùng tỷ bắt ngao.”
Hải Oa cất con ốc biển nhỏ vào vạt áo, vui vẻ chạy tới, trên đường còn đá mấy con cua nhỏ:“Đệ đến đào nè.”
Đào ngao cũng chẳng có kỹ thuật gì nhiều, chỉ cần tìm được lỗ thở, theo đó xẻng xuống vài lần, xẻng sâu một chút là được. Có muối hạt mịn thì càng tiện, rắc một ít, ngao sẽ tự chui lên.
Có lẽ chưa ai đào ở vùng bãi bùn này nên ngao và sò nhỏ rất nhiều, nhiều con trực tiếp thò đầu ra, chỉ cần nhặt là được.
Tuyệt nhiên không giống sau này bãi bùn bị tàn phá gần hết, phải dùng xẻng đào rất sâu mới tìm thấy một con.
Giang Doanh Tri nhặt rất thoải mái, nghe tiếng va chạm trong giỏ cũng thấy thỏa mãn vô cùng.
Tháng ba âm lịch đã qua tiết Thanh Minh, tuy rằng ngao đến Đoan Ngọ mới béo mập, ngon nhất, nhưng hiện tại thịt ngao đã được tám phần đầy đặn rồi.
Cả một giỏ ngao lớn như vậy, cánh tay Tiểu Mai gầy yếu, quanh năm đói ăn, đè nặng khiến cô bé phải cong lưng, hai tay đỡ giỏ mới có thể gắng sức.
Giang Doanh Tri đưa tay nhận lấy, nhẹ nhàng xách bằng tay trái, còn tay phải nàng vẫn còn hai chiếc giỏ cá đầy ắp.
Nàng bước đi trên làn sóng biển, cười với Tiểu Mai: "Tỷ xách nổi, muội dẫn Hải Oa đi rửa tay đi."
Tiểu Mai nhìn nàng, rồi đi lên dắt Hải Oa. Từ khi nương cô bé mất, cha cô bé lấy mẹ Hải Oa, không còn ai quan tâm đồ trên tay cô bé có nặng hay không nữa.
Giang Doanh Tri và Tiểu Mai giũ sạch bùn cát trên ngao dưới biển, nàng không nỡ rời đi, đã lâu lắm rồi nàng chưa thấy biển xanh như vậy, hơn nữa đây lại là Vọng Hải xưa kia.
Cuối cùng nàng vẫn cứ bước ba bước lại ngoái đầu nhìn một lần rồi mới đi.
Về đến nhà Tiểu Mai, Tiểu Mai lấy từ trên vách ngăn mái nhà xuống một chiếc chậu gỗ bám đầy bụi. Cô bé có chút xấu hổ nói: "Không ai dùng, bám đầy bụi cả. Tỷ đợi ta mang ra khe suối rửa đã."
"Ta đi cùng muội.” Giang Doanh Tri không mang giỏ lên mái nhà, mà đặt bên cạnh bếp lò, để nó tự chảy hết nước.
Nàng vẩy vẩy tay, hỏi: "Còn thùng lớn nào không?"
Tiểu Mai không hiểu, chỉ vào chiếc chậu gỗ, ý là cái này đủ đựng ngao rồi.
"Ta đi gánh cho hai tỷ đệ chút nước." Giang Doanh Tri nghĩ là tiện tay, nhỡ nàng ngủ một giấc rồi có thể trở về, dù sao cũng phải để lại chút gì đó cho Tiểu Mai.
Tiểu Mai lắc đầu, cô bé nói chiếc thùng nước quá nặng, không xách nổi. Cuối cùng không lay chuyển được Giang Doanh Tri, cô bé tìm cho nàng hai chiếc thùng gỗ đầy bụi.
Giang Doanh Tri không để ý: "Bẩn một chút không sao, may là không dột."
Khi ra ngoài gánh nước, nàng mới phát hiện, nơi Tiểu Mai ở cách khá xa những nhà khác — một căn nhà tre đơn độc nép mình dưới chân núi.
“Sao lại ở xa như vậy?” Giang Doanh Tri vừa bước lên con đường mòn quanh co dẫn lên núi, vừa nghiêng đầu hỏi.
Tiểu Mai hai tay ôm chặt chiếc chậu gỗ, khó nhọc bước từng bước lên dốc. Nghe vậy, cô bé thoáng ngẩn người, liếc nhìn Hải Oa đang tung tăng phía trước, rồi khẽ nói:
“Cha muội khi ấy mắc bệnh mua củi, sợ lây cho người khác nên dọn ra đây ở.”
Nói xong, cô bé không dám nhìn vào mắt Giang Doanh Tri.
“Bệnh mua củi là bệnh gì?” Nàng khẽ nhấc hai thùng nước lên cao hơn một chút, trong lòng còn đang đoán xem đó là bệnh gì, sao lại có cái tên kỳ quặc như vậy.
Tiểu Mai thấy nàng thực sự không biết, âm thầm thở phào nhẹ nhõm. Cắn môi một chút, cuối cùng vẫn quyết định kể:
Thì ra, trước đây ở Hải Phổ, người ta gọi bệnh sốt rét là bệnh “mua củi”. Bởi khi mắc bệnh ấy, người bệnh sẽ rét run liên tục, phải đốt củi suốt ngày để sưởi ấm, thành thử mới gọi như vậy.