Sau khi cha của Diệp Tư bình tĩnh lại, ông liền vào nhà, nói với mẹ Diệp Tư – người đang ở cữ. Hai người bàn bạc với nhau, dù chuyện này có thật hay không, trong nhà cũng còn dư dả tiền bạc, có thể nuôi được một thư sinh.
Lúc Diệp Tư đang ăn cơm, mẹ hắn lại tiếp tục bận rộn. Ăn xong vẫn không thấy bóng dáng phu lang của mình, Diệp Tư liền đứng dậy hỏi: “A mẫu, những người khác trong nhà đâu rồi?”
Mẹ hắn trả lời: “Cha con đi giúp nhà trưởng thôn xây sân, còn Thanh nhi lên núi cắt cỏ cho heo rồi.” Nói xong, mẹ hắn lại tiếp tục công việc của mình.
“Vậy con đi tìm Thanh nhi nhé!”
Sợ mẹ không đồng ý, Diệp Tư vội vàng giải thích: “Con đã nằm ba ngày rồi, cả người mỏi nhừ, con ra ngoài đi dạo một chút, vận động gân cốt.” Nói xong, hắn liền đeo gùi tre đặt ở góc sân rồi ra ngoài.
Cái gùi này là lúc nãy hắn vô tình thấy khi đi tìm phu lang, giờ vừa hay dùng để đựng những thứ quý giá trên núi. Mặc dù biết rằng thôn làng nằm ngay dưới chân núi, nhưng nguyên chủ là một thư sinh, hằng ngày không phải ở trường học thì cũng là ngồi đọc sách trong nhà.
Lại thêm việc nguyên chủ hay đau ốm, nên hắn gần như chưa bao giờ lên núi. Lần lên núi gần nhất cũng là khi Đào Thanh chưa gả qua đây. Khi ấy, cha Diệp Tư lên núi đốn củi, mẹ hắn thì đang nấu cơm tối. Nhìn trời mỗi lúc một tối dần mà cha vẫn chưa về, mẹ hắn lo lắng không yên, sợ rằng có chuyện chẳng lành xảy ra.
Thật ra, lúc cha hắn đi thì trời cũng đã sẩm tối. Hơn nữa, vùng rìa núi không có loài thú nguy hiểm nào, nên mẹ hắn cũng yên tâm để ông đi. Bình thường, cơm nấu xong thì cha hắn cũng đã về đến nhà. Nhưng lần này cơm canh đều nguội rồi mà ông vẫn chưa về, khiến mẹ hắn sốt ruột vô cùng.
Ban đêm trong thôn yên tĩnh, nhưng thường có thể nghe thấy tiếng sói tru văng vẳng. Mẹ hắn lo rằng nếu cha gặp sói thì phải làm sao. Nghe nói ông ngoại của Diệp Tư từng kể trên núi có gấu, loài gấu đen còn cao hơn cả con người. Khi ấy, ông ngoại nhìn thấy con gấu đang ăn mật ong, nhân lúc nó không để ý liền lặng lẽ chạy trốn.
Lúc đó, ông ngoại còn chưa lập gia đình. Bao nhiêu năm trôi qua, nếu con gấu ấy sinh ra gấu con, thì lên núi chẳng phải càng nguy hiểm sao? Vậy nên bình thường không có chuyện gì thì người trong thôn cũng không lên núi. Hôm nay cha hắn lên núi đốn củi cũng vì trời đông giá rét, trong nhà không còn củi để đốt nữa.
Cha hắn thấy củi không đủ dùng cho bữa sáng ngày mai nên xách rìu lên núi. Người ta thường nói "dựa vào núi ăn núi, dựa vào biển ăn biển", người trong thôn đâu có thói quen tích trữ củi chứ. Họ luôn đợi đến khi thiếu mới lên núi chặt.
Khi đốt lên, còn có thể nghe thấy tiếng nổ lép bép. Nghe nói đó là vì có côn trùng bên trong cành cây, khi đốt lửa lên, côn trùng cũng bị thiêu chết. Đến khi trời đã tối hẳn, từng nhà trong thôn đều đã tụ tập trò chuyện, nhưng cha Diệp Tư vẫn chưa trở về.
Mẹ hắn càng thêm lo lắng. Núi sâu nguy hiểm, người không có giao tình thân thiết cũng chẳng muốn mạo hiểm đi tìm. Mẹ hắn sốt ruột đi đi lại lại. Diệp Tư nhìn thấy mẹ lo lắng như vậy liền hiến kế: “Chúng ta đi xem trước, nếu không thấy cha thì nhờ trưởng thôn tìm người giúp.”
Mẹ hắn thấy cũng có lý, liền bảo hắn mặc thêm áo, vì hắn vốn ốm yếu, trời thì lạnh, nếu bị cảm thì cũng không ổn. Hai mẹ con đi đến chân núi thì thấy một bóng người mờ mờ ảo ảo đang gánh một bó củi lớn từ trên xuống.
Thì ra vì trời quá lạnh, những nhánh cây ở vùng rìa núi đã bị đốn sạch, cha hắn phải đi sâu vào trong mới tìm được củi, nên mới mất nhiều thời gian như vậy. Đó cũng là lần duy nhất nguyên chủ tiếp cận ngọn núi gần nhất.
Mẹ hắn vừa quay đầu lại định dặn dò hắn cẩn thận, không được vào sâu trong núi vì có rắn độc, sói hoang, thì đã thấy hắn ra khỏi cửa từ lâu.
Lần đầu tiên trong đời, Diệp Tư sắp được tận mắt chiêm ngưỡng ngọn núi hoang sơ chưa từng được khai phá. Vì vậy, hắn bất giác sải bước nhanh hơn. Khi mẹ hắn vừa định dặn dò thêm thì hắn đã gần đến chân núi.
Lúc này, trong lòng Diệp Tư tràn đầy mong chờ, cuối cùng cũng có thể nhìn thấy ngọn núi nguyên sơ. Hồi nhỏ hắn sống ở đồng bằng, lớn lên lại mãi mê học hành. Đến khi lấy bằng tiến sĩ, nghe theo đề xuất của thầy hướng dẫn mà vào viện nghiên cứu.
Mỗi khi định dành thời gian thưởng ngoạn non sông gấm vóc của tổ quốc, thì hoặc là dữ liệu nghiên cứu gặp sai sót, hoặc là trợ lý làm việc không đạt yêu cầu. Ngược lại, khi đến một triều đại xa lạ, hắn lại có thời gian để ngắm phong cảnh. Kiến thức trong đầu hắn liệu có thể dùng đến không?
Dù sao thì triều đại này chưa từng xuất hiện trong lịch sử, vài nghìn năm sau có phát triển giống như hắn tưởng tượng không thì cũng chưa biết được.
Khi Diệp Tư đi đến chân núi, ngẩng đầu nhìn lên thấy một con đường mòn nhỏ trên núi, chắc là lối đi mà người trong thôn giẫm lên tạo thành. Hắn đeo gùi tre lên lưng rồi tiến vào rừng, nghĩ rằng sau khi tìm thấy phu lang, nhất định phải hỏi cho rõ tại sao người ta không mang cơm cho mình.
Hắn nhất định phải làm rõ tại sao tiểu phu lang của mình lại xấu hổ. Cho nên nói, người ta có thể học thẳng một mạch từ thạc sĩ lên tiến sĩ đều có lý do cả. Hỏi xem có ai có thể vì một vấn đề mà kiên trì không bỏ cuộc, đuổi theo người ta đến tận trên núi không? Còn chưa tìm thấy tiểu phu lang nhà mình, Diệp Tư đã gặp phải một vấn đề khó.
Trước mặt có hai con đường, con đường nào mới là đường đi hái rau dại đây? Nhìn mức độ um tùm của cỏ dại trên hai con đường, Diệp Tư chọn con đường mà cỏ mọc yếu hơn. Bởi vì con đường này có thể nhìn thấy phía trước, có thể nhìn được đến tận cuối con đường, có một tương lai tươi sáng. Còn con đường kia thì bị những cây cao lớn che khuất tầm nhìn, giữa những cây cao đó còn có những bụi cỏ cao tới tận đùi.
Cỏ cao như vậy, nếu bị rắn rết trong đó cắn trúng, với trình độ y tế lạc hậu hiện nay, nếu không được cứu chữa kịp thời thì hậu quả thật khó mà lường. Nếu may mắn thì có thể bị liệt nửa người, từ đó về sau không còn hy vọng khoa cử. Nếu xui xẻo thì có thể chết ngay tại chỗ. (Bình tĩnh mỉm cười.JPG)
Số lượng cỏ dại ít hơn chứng tỏ có nhiều người đi qua hơn, nói cách khác, khả năng tiểu phu lang nhà mình đi con đường này là lớn hơn. Diệp Tư bắt đầu hành trình tìm kiếm phu lang của mình. Lúc này trong đầu hắn đã có thể tưởng tượng được vẻ mặt kinh ngạc của tiểu phu lang khi nhìn thấy mình.
Dù gì thì nguyên thân trước đây chưa từng lên núi, càng đừng nói là lên núi tìm Đào Thanh. Chuyện này không thể nào xảy ra. Nhưng hắn không biết rằng, tiểu phu lang của hắn lúc này đã hái xong rau dại, đang chuẩn bị cùng bạn mình đi tới con suối nhỏ để rửa rau.
Con đường đến bờ sông và con đường lên núi là hai con đường khác nhau. Cứ thế, Diệp Tư và tiểu phu lang mà hắn hằng mong nhớ đã lướt qua nhau. Lúc này, Đào Thanh đang cùng phu lang nhà họ Tôn, Địch ca nhi, xuống núi. Hai người họ tình cờ gặp nhau khi đang hái rau dại.
Đào Thanh đi hái rau là vì Diệp Tư đọc sách, chữa bệnh đều cần chi tiêu rất nhiều. Vì thế, rau nhà trồng được, đến khi thu hoạch cũng không nỡ ăn, mà thường đem ra chợ bán.
Còn phu lang nhà họ Tôn là vì chồng của y là một thợ săn, trong lúc đi săn trên núi thì bị lợn rừng húc gãy chân. Từ đó về sau không thể làm việc nặng, lại còn phải uống thuốc. Trong nhà còn hai đứa nhỏ cần ăn uống. Trụ cột gia đình đã ngã xuống.
Việc đồng áng trong nhà họ Tôn đều do một tay Tôn phu lang gánh vác. Cha mẹ chồng vốn đã không ưa chồng của y từ nhỏ, chồng y vừa tròn mười lăm tuổi đã bị đuổi ra khỏi nhà. Khi đó, trưởng làng và các vị tộc lão đều không đồng ý, cảm thấy Tôn lão tam làm quá đáng.
Tôn Đại, tức là chồng của phu lang họ Tôn, bằng lòng dùng việc bị đuổi ra khỏi nhà để đổi lấy việc từ nay về sau ân đoạn nghĩa tuyệt với gia đình. Từ đó về sau, việc cưới gả, bệnh tật hay khó khăn, cũng sẽ không tìm đến Tôn lão tam xin một đồng nào. Nếu sau này Tôn Đại giàu có, cũng không có bất kỳ quan hệ gì với Tôn lão tam nữa. Từ đó, chuyện cưới gả, tang lễ hay chuyện vui buồn cũng không liên quan gì nhau.
Phu lang nhà họ Tôn đúng là người có số khổ. Mẹ ruột của y gặp khó sinh khi sinh y ra, sau đó thì bị băng huyết mà mất. Khi y ba tuổi, cha ruột cưới một quả phụ mới. Người ta vẫn nói: "Có mẹ kế thì có cha dượng".
Từ khi hiểu chuyện, phu lang nhà họ Tôn chưa từng được ăn một bữa cơm no. Không chỉ ăn không đủ no, mà tất cả công việc trong nhà đều do y làm. Mùa đông, y phải ra sông giặt quần áo bằng nước lạnh. Giặt là giặt cho cả nhà bọn họ. Mùa đông, y chỉ có một bộ quần áo.
Bộ quần áo đó là do con gái của mẹ kế mặc ba năm, cảm thấy không đủ ấm nữa mới cho y. Vào mùa đông, cả nhà họ đều ở trong phòng có bếp sưởi, không phải lo lắng về cái lạnh, ngay cả bếp sưởi mùa đông cũng là Địch ca nhi đốt lửa.
Còn bản thân Địch ca nhi (phu lang nhà họ Tôn) thì mặc chiếc áo bông không đủ ấm đó, đắp cái chăn cứng như sắt. Cái chăn đó là đồ cưới của mẹ ruột y, từ nhỏ y đã đắp nó cho đến lớn.
Y phải ở trong căn phòng chứa đồ rách nát, trên người không có một chỗ nào lành lặn, toàn là vết bỏng lạnh và vết roi. Ban đêm, Địch ca nhi co ro trong chiếc chăn không đủ ấm, bên tai là tiếng gió lạnh rít gào, lúc này cái bụng cũng không nghe lời, réo ùng ục.
Mùa đông sáng sớm, khi trời còn chưa sáng, y phải dậy gánh nước, về nhà nhóm lửa nấu cơm. Phải bảo đảm khi cả nhà thức dậy thì có cơm ăn, nếu không thì cả ngày hôm đó Địch ca nhi sẽ không được ăn gì. Dù vậy, ba bữa cơm mỗi ngày vẫn phải làm.
Chính vì vậy, Địch ca nhi ghét nhất là mùa đông, không chỉ bụng đói réo, ban đêm không ngủ ngon, ban ngày phải nấu cơm, còn phải đυ.c băng giặt quần áo. Địch ca nhi nghĩ rằng chắc hẳn ai cũng ghét mùa đông. Nhưng thế vẫn chưa là gì, mẹ kế của y nhất định phải vắt kiệt giá trị cuối cùng của y.
Đến khi Địch ca nhi đến tuổi, mẹ kế sắp xếp hôn sự cho y. Khi đó, mẹ kế đã nhận sính lễ của nhà người ta rồi. Sính lễ vô cùng hậu hĩnh, nửa con heo, một tấm vải đỏ, còn có một cân đường đỏ. Sính lễ còn nhiều hơn cả nữ nhi nữa.
Những ca nhi và nữ nhi trong thôn không biết chuyện đều vô cùng ghen tị với Địch ca nhi, nghe nói còn là người ở trấn trên, sau này gả đi rồi thì có thể hưởng phúc. Không cần ngày ngày lo lắng về hai mẫu ruộng kia nữa. Sau này cũng không cần làm ruộng.
Lúc đó, mẹ kế ghé vào tai y nói, gả đến trấn trên chỉ có lợi chứ không có hại. Nói rằng nhà đó giàu có, cũng không có thϊếp thất gì để lo lắng, chỉ là có hai đứa con. Con gả qua đó thì chỉ việc hưởng phúc, dù sao ca nhi cũng không dễ sinh nở, con gả qua đó là làm chính thê. Trong nhà đã có con rồi, cũng không cần lo lắng chuyện nối dõi sau này.
Địch ca nhi không tin mẹ kế lại tốt bụng như vậy, nếu thực sự là nhà tốt thì mẹ kế chắc chắn sẽ để con gái ruột của bà ta gả đi trước, sao có thể đến lượt y được?
Địch ca nhi không phản kháng không có nghĩa là y ngu ngốc. Y chỉ là không muốn phản kháng, vì biết rõ rằng nếu phản kháng thì kết quả sẽ là một trận đòn nhừ tử.