Sau Khi Ly Hôn, Tôi Về Quê Trồng Trọt

Chương 2: Ngôi làng nguyên sơ – Ngôi nhà cũ của nhà họ Tô

“Lạch cạch lạch cạch, lạch cạch lạch cạch, lạch cạch lạch cạch lạch…”

Chiếc máy kéo kiểu cũ chạy trên con đường đất gập ghềnh, Tô Lăng ngồi trong thùng kéo phía sau bị xóc đến mức sắp nôn ra, bốn chiếc vali lắc lư nghiêng ngả, bề mặt bị va đập trầy xước và phủ đầy bụi bẩn.

Tài xế ngồi phía trước điều khiển máy kéo rất thành thạo, quay đầu lại hét lớn: “Cậu trai trẻ, phía trước chính là thôn Thạch Khê.”

Giọng nói lẫn giữa tiếng phổ thông và tiếng địa phương, cộng thêm tiếng động ầm ầm của máy kéo, Tô Lăng nghe không rõ lắm, chỉ đoán được đại khái ý nên lập tức rướn cổ, ngẩng đầu nhìn về phía trước.

Cuối con đường đất gập ghềnh là một dãy núi trập trùng nối tiếp nhau, dưới chân núi thấp thoáng một ngôi làng nhỏ.

Đó chính là thôn Thạch Khê, nơi nhị gia gia đã sống cả đời sao?

Tô Lăng đã từng tưởng tượng nông thôn sẽ hẻo lánh và lạc hậu, nhưng không ngờ lại hẻo lánh và lạc hậu đến mức này.

Sau khi hoàn tất thủ tục và giấy tờ liên quan đến di sản tại văn phòng luật ở thành phố H, luật sư Trương nhiệt tình lái xe đưa cậu đến trấn Liễu Tiên.

Tô Lăng cực kì cảm kích, đãi anh ta một bữa cơm đơn giản ở nhà hàng trong trấn, sau đó luật sư Trương có việc bận nên rời đi trước, còn cậu phải tự tìm cách đến thôn Thạch Khê.

Tuy nhiên, người lạ đất lạ lại còn kéo theo bốn chiếc vali lớn, Tô Lăng hơi hoang mang không biết làm sao.

Chủ quán ăn thấy cậu khó xử, đã chỉ đường giúp.

“Thôn Thạch Khê cách trấn mình mười cây số, cậu đi xe buýt hoặc bắt xe đến Liễu Hầu Đình rồi đi bộ một đoạn nữa là tới.”

Tô Lăng cảm ơn chủ quán, đứng trước cửa nhà hàng đón một chiếc taxi, nhét bốn chiếc vali vào xe, rồi nói với tài xế là muốn đến Liễu Hầu Đình.

Tài xế taxi rất tò mò về chàng trai trẻ đẹp trai, ăn mặc thời trang từ nơi khác đến này, cứ hỏi hết chuyện này đến chuyện khác, nói không ngừng.

Tô Lăng không muốn trả lời, chỉ mỉm cười lịch sự, giả vờ như không hiểu tiếng phổ thông giọng địa phương lơ lớ của tài xế, khiến ông ta đành phải im bặt.

Khi đến Liễu Hầu Đình và xuống xe, Tô Lăng lập tức sững người.

Chủ quán ăn đã nói gì nhỉ? Tới Liễu Hầu Đình rồi đi thêm một đoạn là đến thôn Thạch Khê?

Đó mà gọi là một đoạn đường sao?

Rõ ràng là một đoạn đường rất, rất, rất dài!

Một con đường dài vắt ngang cánh đồng bao la không thấy điểm cuối, có lẽ hôm qua vừa mưa xong nên cả con đường lầy lội gồ ghề, kéo theo bốn chiếc vali thì hoàn toàn không thể đi nổi.

Đúng lúc cậu đang không biết làm sao thì một chiếc máy kéo có thùng kéo đi ngang qua, tài xế nhiệt tình cho cậu đi nhờ một đoạn.

Suốt chặng đường “lạch cạch lạch cạch” ầm ĩ khiến người ta ù cả tai, mông cũng bị xóc đến mức tê rần.

Cuối cùng, máy kéo tắt máy dưới gốc cây đa lớn đầu làng, cả thế giới trở nên yên tĩnh!

“Cậu trai trẻ, đây chính là thôn Thạch Khê.” Ông Lưu xuống khỏi máy kéo, giọng to rõ nói.

Tô Lăng một tay ôm bụng, một tay bịt miệng, mặt tái nhợt bò xuống.

Ông tài xế Lưu móc từ túi ra một viên kẹo, cười hớn hở đưa cho cậu: “Lần đầu đi máy kéo ai cũng vậy cả, nào, ăn viên kẹo để dằn cơn sốc đi.”

Tô Lăng nhìn bàn tay thô ráp đen sạm trước mắt, yếu ớt nhận lấy viên kẹo: “Cảm ơn.”

Cậu bóc lớp giấy bọc, bỏ viên kẹo vào miệng, đầu lưỡi cảm nhận được vị chua chua ngọt ngọt, nuốt nước bọt hai lần, kỳ diệu thay dạ dày lại được xoa dịu, cảm giác buồn nôn cũng dần tan biến.

Lấy lại sức, cậu đứng trên nền xi măng đầy vết nứt, ngẩng đầu nhìn ra xa, toàn cảnh thôn Thạch Khê hiện ra trước mắt.

Đây là một ngôi làng cổ.

Cây đa lớn rậm rạp, rễ khí sinh rủ xuống đầy những tua, rễ cây trồi lên mặt đất chằng chịt như những con rồng cuộn mình. Xung quanh là một khoảng đất trống lớn, phơi đầy lúa, thảo dược, trái cây khô cùng chăn bông, quần áo và ga giường.

Đi qua khoảng đất trống là một con đường lát đá rộng một mét, bên trái đường là dòng sông, bên phải là những ngôi nhà, cũ mới xen kẽ, có cái xây bằng gạch đỏ, có cái xây bằng đá, hoàn toàn không theo quy luật nào. Có những ngôi nhà sát nhau, có cái cách nhau bởi một cánh đồng lớn, có cái lẻ loi nằm dưới chân núi, thậm chí có cái được xây trên núi, ẩn mình trong rừng cây.

Gà vịt ngỗng thấy khắp nơi, chó ta chạy nhảy đuổi bắt nhau vui vẻ, mèo hoang lười biếng phơi nắng, bọn trẻ con ba năm đứa tụm lại ngồi xổm chơi bắn bi. Khói bếp lượn lờ, bóng cây xanh rợp, ruộng đồng trồng đầy mạ non xanh mướt, kết hợp với những cánh đồng cải dầu vàng óng nơi xa, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, khiến lòng người khoan khoái.

Cậu chưa từng nghĩ trong nước vẫn còn tồn tại một ngôi làng nguyên sơ như thế này. Nếu không phải thấy trên ngực ông Lưu có treo điện thoại thì cậu còn nghi ngờ nơi đây không có wifi.

“Chàng trai trẻ, cậu đến thôn Thạch Khê là để tìm người thân hay trải nghiệm cuộc sống nông thôn?” Ông Lưu tò mò hỏi.

Tô Lăng thu ánh mắt lại, nhìn người chú trung niên cao lớn này, lễ phép ôn hòa đáp: “Tôi sẽ ở đây một thời gian.”

Ông Lưu ngạc nhiên, không nhịn được nhìn cậu từ đầu đến chân. Chàng trai này da trắng trẻo, đẹp đẽ, rõ ràng là người thành phố sống sung sướиɠ, sao lại muốn tới vùng quê lạc hậu nghèo nàn này?

Thanh niên trong làng mới tốt nghiệp cấp hai là đã mong mọc cánh bay lên thành phố, cả đời chẳng muốn quay về, thế mà cậu trai này lại đi ngược dòng, một mình tới nông thôn, chẳng lẽ đầu óc có vấn đề?

Nhận ra ánh mắt kỳ lạ của ông Lưu, Tô Lăng hơi xấu hổ, mặt hơi đỏ lên, giải thích: “Nhị gia gia của tôi là người thôn Thạch Khê, tôi thừa kế di sản của ông ấy nên đến xem thử…”

“À, di sản? Nhị gia gia của cậu là…” Ông Lưu nghiêng đầu suy nghĩ, bỗng bừng tỉnh: “Tô nhị gia! Cậu là người thân của Tô nhị gia à?”

Tô nhị gia là ai?

Nhắc đến tên ông ấy, cả thôn Thạch Khê không ai là không biết.

Tô nhị gia tên thật là Tô Lam, cái tên đầy thi vị, hưởng thọ bảy mươi lăm tuổi, sống trong ngôi nhà tổ họ Tô dưới chân núi Phượng Hoàng, phía đông thôn Thạch Khê. Nghe nói ngôi nhà tổ họ Tô đã có lịch sử năm trăm năm, truyền lại đến nay vẫn được bảo tồn nguyên vẹn. Sáu mươi năm trước, Tô lão đại phát tài ở thành phố S nên cả nhà dọn lên thành phố lớn sinh sống, chỉ có Tô nhị gia không muốn rời đi, ở lại làng trông coi ngôi nhà tổ. Hai tháng trước, ông ấy mất vì bệnh, để lại một khoản di sản, ủy thác cho văn phòng luật sư ở thành phố H xử lý.

Tô nhị gia cả đời không lập gia đình, không có con, di sản của ông ấy vốn nên do hậu duệ của Tô lão đại thừa kế, không ngờ hôm nay người từ nơi khác đến chính là cháu đời sau của Tô lão đại.

Tô Lăng gật đầu xác nhận.

Cậu cũng chỉ mới biết về cuộc đời của nhị gia gia sau khi trao đổi với luật sư Lưu ngày hôm nay.

Nhị gia gia cả đời sống ở thôn Thạch Khê, lấy nghề nông làm kế sinh nhai, năm năm mươi lăm tuổi dùng tiền tích góp nửa đời để nhận thầu núi Phượng Hoàng trong bảy mươi năm. Có tiền rồi cũng không nghĩ đến việc lên thành phố hưởng thụ, ngược lại còn trùng tu, mở rộng nhà tổ họ Tô. Hai tháng trước đột ngột xuất huyết não, trước khi hôn mê đã gọi điện cho luật sư để lập di chúc, dặn dò hậu sự, cuối cùng ra đi thanh thản.

Ông ấy không kết hôn, cũng không có con, để lại tài sản cho Tô Lăng có lẽ liên quan đến lần Tô Lăng hồi nhỏ từng đến đây.

Năm đó Tô Lăng sáu tuổi, theo cha đi ngang qua thành phố H, cha cậu chợt nhớ ở quê còn một người thân nên nổi hứng đưa Tô Lăng đến thôn Thạch Khê thăm nhị gia gia.

Lúc đó còn nhỏ, ký ức của Tô Lăng về chuyện ấy rất mơ hồ, không chỉ quên mất dáng vẻ của nhị gia gia mà còn quên cả vị trí của ngôi nhà tổ.

Cậu hỏi ông Lưu, ông Lưu chỉ về phía đông nói: “Nhà tổ họ Tô ở cuối thôn phía đông, đi về hướng đó chỉ có một con đường nhỏ, máy kéo không vào được đâu, chàng trai trẻ, cậu phải tự đi thôi.”

Tô Lăng nhìn bốn chiếc vali to nặng nề, lại nhìn con đường đá hẹp kia, không khỏi mím môi.

Nếu sớm biết ở nông thôn ngay cả một con đường đàng hoàng cũng không có, cậu nhất định sẽ cố gắng tối giản hành lý, đóng gói gọn trong một vali cho dễ mang.

Giờ thì hay rồi, cậu biết kéo bốn cái vali to này đến nhà tổ kiểu gì đây?

Ông Lưu thấy cậu khó xử, nhiệt tình nghĩ ra một cách giúp đỡ.

“Cậu chờ chút, tôi tìm cho cậu một đứa nhỏ, để nó giúp cậu.”

“Vậy… Làm phiền bác rồi.” Tô Lăng cảm kích nói.

Ông Lưu đi về phía đám trẻ con đang tò mò nhìn quanh không xa, nói vài câu với một cậu thiếu niên khoảng mười ba, mười bốn tuổi. Thiếu niên ấy gật đầu, lập tức chạy đi, một lúc sau quay trở lại.

“Ò…”

Thiếu niên đột nhiên dắt một con bò khỏe mạnh tới.

Đôi mắt xinh đẹp của Tô Lăng hơi mở to, ngạc nhiên nhìn con bò từ từ đi đến chỗ chiếc máy kéo. Ông Lưu vỗ vai thiếu niên, cười híp mắt nói: “Chàng trai trẻ, đứa nhỏ này tên là Lí Đại Hải, bò nhà thằng bé có thể giúp cậu chở vali qua, cậu cứ đi theo thằng bé là được.”

Tô Lăng nhìn sang Lí Đại Hải, Lí Đại Hải cũng nhìn Tô Lăng, hai người mắt to trừng mắt nhỏ, tò mò quan sát đối phương.

Dưới sự giúp đỡ của ông Lưu, bốn chiếc vali lớn được buộc bằng dây thừng, treo lên lưng con bò. Lí Đại Hải dắt dây dắt bò đi phía trước, Tô Lăng giẫm lên con đường đá lầy lội, đi theo sau mông bò, hướng về nhà tổ họ Tô.

Nhà tổ họ Tô nằm tách biệt trong thôn Thạch Khê, từ đầu thôn men theo đường đá đi về phía đông, băng qua suối, xuyên qua hai mẫu ruộng, đến chân núi Phượng Hoàng là có thể nhìn thấy một bức tường trắng ngói xanh.

Cậu bé Lí Đại Hải chỉ vào bức tường trắng nói: “Đó chính là nhà của ông Tô.”

Tô Lăng nhìn theo hướng cậu ấy chỉ, phát hiện đó là bức tường bao của một khu vườn mang phong cách cổ điển. Có thể đã được tu sửa, tường được sơn trắng toát, ngói lưu ly xanh dưới ánh nắng lấp lánh sáng rực.

Không ngờ lại là khu vườn kiểu Giang Nam?

“Cậu từng đến đây rồi à?” Cậu hỏi Lí Đại Hải.

“Có đến rồi!” Lí Đại Hải nói: “Ông Tô rất tốt, cho bọn tôi vào vườn chơi, có làm hỏng gì cũng chưa bao giờ bị mắng.”

Hai người vừa đi vừa trò chuyện không ít. Ban đầu Lí Đại Hải hơi rụt rè, nhưng phát hiện Tô Lăng không giống những người thành phố khác, ánh mắt nhìn cậu ấy không có chán ghét cũng không có khinh thường nên không kiềm được mà mở lòng.

Cậu thiếu niên ngây thơ chất phác, mới nói vài câu đã bị Tô Lăng dò hỏi rõ tình hình gia đình.

Lí Đại Hải là trẻ em bị bỏ lại nông thôn, cha mẹ đi làm ăn xa quanh năm không về, cậu ấy sống với ông bà nội. Có bằng tốt nghiệp cấp hai, dinh dưỡng không đầy đủ nên nhìn như mười ba mười bốn tuổi, nhưng thực ra đã mười lăm. Hỏi cậu ấy tại sao không học tiếp cấp ba, cậu ấy ậm ừ nói không muốn học nữa, chỉ muốn sớm ngày giúp ông bà làm việc đồng áng.

Ánh mắt thiếu niên dao động, mặt đỏ bừng, nhìn qua là biết không giỏi nói dối.

Tô Lăng không có sở thích xâm phạm chuyện riêng tư của người khác, thiếu niên đã không muốn nói thì cậu cũng không hỏi thêm nên chuyển đề tài sang nhị gia gia, Lí Đại Hải thở phào nhẹ nhõm, tích cực đáp lời.

Thế là trong đầu Tô Lăng dần hiện lên hình ảnh phác họa về nhị gia gia.

Nhị gia gia thích mặc đồ võ thuật, mỗi sáng đều luyện Thái Cực quyền dưới gốc cây đa ở đầu làng, trong túi thường mang theo kẹo để chia cho lũ trẻ trong thôn, lúc mùa vụ bận rộn thì mặc quần áo cũ, đội nón lá, vác cuốc ra đồng làm việc, nhanh nhẹn gọn gàng.

Đến trước cổng lớn, Lí Đại Hải buộc con bò vào cọc gỗ bên cạnh, hai người cùng nhau dỡ hành lý đặt xuống đất, Tô Lăng lấy ra chùm chìa khóa mà luật sư đưa từ chiếc túi nhỏ mang theo, thử mấy cái, cuối cùng cũng mở được khóa.

Cậu tò mò đẩy cánh cổng ra, lập tức đập vào mắt là một thảm cỏ xanh mướt.

Mùa xuân là thời điểm lý tưởng để cây cối sinh trưởng, hai tháng không có người ở, sân nhỏ cỏ dại mọc um tùm, hoa dại đua nhau nở, tràn ngập hơi thở thiên nhiên.

“Cùng vào xem thử chứ?” Tô Lăng quay đầu hỏi Lí Đại Hải.

Lí Đại Hải do dự: “Có được không?”

Tô Lăng mỉm cười: “Tất nhiên là được. Sau này đây sẽ là nhà của tôi, hoan nghênh cậu đến chơi bất cứ lúc nào.”

“Ừm!” Lí Đại Hải vui vẻ gật đầu, xách hành lý giúp. Đừng thấy người cậu ấy gầy gò, nhờ thường xuyên lao động nên rất khỏe, nhấc bổng hai chiếc vali lớn rất nhẹ nhàng, hăm hở bước vào trong.

Tô Lăng vất vả xách hai chiếc còn lại, cố sức bước qua ngưỡng cửa cao.

Vừa vào nhà, khung cảnh toàn bộ khu nhà cổ liền hiện ra trước mắt.

Sân được chia làm hai phần bởi con đường lát đá xanh rộng một mét, bên trái là bãi cỏ, cây cối và đá cảnh, bên phải là hồ sen, cạnh hồ có hành lang quanh co và thủy tạ, cuối con đường đá xanh là một căn nhà hai tầng cổ kính, cột nhà sơn đỏ tươi, mái ngói lưu ly mới tinh, tường trắng sạch sẽ.

So với những ngôi nhà cũ kỹ, thấp bé ở thôn Khê Thạch, căn nhà cổ của nhà họ Tô chẳng khác gì một biệt thự sang trọng, toàn bộ khu sân mang đậm vẻ tao nhã của vườn cổ Giang Nam, là nơi yêu thích của giới văn nhân mặc khách*.

(*) Chỉ những người học rộng, giỏi văn chương, đặc biệt là giới văn sĩ, thi nhân, họa sĩ hoặc người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật chữ nghĩa

Xem ra nhị gia gia không chỉ đơn thuần là một nông dân, mà là một ẩn sĩ sống ở nông thôn.

Vì Lí Đại Hải là khách quen nên Tô Lăng để cậu ấy dẫn mình đi làm quen với môi trường xung quanh.

“Vào nhà là sảnh chính, ông Tô thích ngồi ở chỗ này uống trà.” Vừa đi Lí Đại Hải vừa giới thiệu: “Phòng này là thư phòng, ông Tô thường viết chữ vẽ tranh ở đây.”

Tô Lăng thấy giá sách nên tiện tay rút một quyển, không ngờ là sách dạy trồng rau, lật vài trang rồi đút trở lại. Trước cửa sổ thư phòng là một chiếc bàn dài, đầy đủ giấy và bút mực.

Xem xong thư phòng, Lí Đại Hải dẫn cậu đi sang bên phải sảnh chính: “Đây là phòng ăn thông với nhà bếp.”

Trong phòng ăn chỉ có một bàn bát tiên và bốn băng ghế dài, có lẽ do thời gian dài nên các góc cạnh bị mòn.

“Ông Tô nói bộ bàn ghế này là do tổ tiên để lại, làm từ gỗ hoàng hoa... Hoàng hoa gì đó...” Gỗ hoàng hoa gì nhỉ, Lí Đại Hải nhất thời không nhớ ra, bực bội vỗ trán.

“Gỗ hoàng hoa lê*.” Tô Lăng nói.

(*) Một loại gỗ quý hiếm, nổi tiếng trong ngành đồ gỗ mỹ nghệ và đồ cổ Trung Hoa. Tên tiếng Việt thường gọi là gỗ hoàng hoa lê hoặc phổ biến hơn là gỗ huê mộc vàng

“Đúng rồi! Gỗ hoàng hoa lê!” Lí Đại Hải vỗ tay.

Tô Lăng đưa ngón tay thon dài nhẹ nhàng quét qua mặt bàn, dính một lớp bụi mỏng.

“Là đồ cổ đấy!” Cậu khẽ nói.

Gỗ hoàng hoa lê còn gọi là gỗ hoàng đàn hương hoặc là hoàng đàn Hải Nam, màu sắc vàng óng, vân gỗ mịn, thường dùng làm đồ gỗ cứng, rất được các thợ thủ công thời Minh Thanh ưa chuộng.

Tổ tiên nhà họ Tô nhất định từng là một gia tộc giàu có mới có thể lưu truyền lại bộ bàn ghế cổ như thế này.

Trong bếp không có gì lạ, chỉ có một bếp lò đất điển hình ở nông thôn và một tủ đứng dựa tường, góc nhà xếp ngay ngắn các loại nông cụ và giỏ tre.

Cửa sau nhà bếp thông ra vườn sau, trong vườn có một cái giếng, một mảnh vườn rau bị cỏ dại chiếm hết, và một căn phòng nhỏ độc lập.

“Trong căn phòng đó để gì vậy?” Tô Lăng hỏi.

Lí Đại Hải lắc đầu: “Không biết.”

Tò mò trỗi dậy, Tô Lăng lấy chùm chìa khóa ra, thử từng chiếc một với ổ khóa. Một tiếng “Cạch” vang lên, chiếc chìa thứ sáu cuối cùng cũng mở được khóa.

“Két…”

Cánh cửa được đẩy ra, từng hàng bài vị cổ kính hiện ra trước mắt, khiến Tô Lăng ngạc nhiên mở to mắt.

Lí Đại Hải ló đầu nhìn vào, khẽ kêu một tiếng rồi vội vã lui lại.

Là bài vị tổ tiên nhà họ Tô và lư hương!

Cổ họng Tô Lăng nghẹn lại, lần đầu tiên nhìn thấy nhiều bài vị như vậy, sống lưng lạnh toát. Cậu cung kính cúi chào một cái, lặng lẽ lùi ra, nhanh chóng đóng cửa và khóa lại.

Lí Đại Hải ngẩng đầu nhìn cậu, vẻ mặt sợ hãi. Tô Lăng xoa đầu cậu ấy, an ủi: “Không sao đâu, tổ tiên nhà họ Tô sẽ không trách bọn mình đâu.”

“Ối, người ở đây à?”

Đột nhiên, một giọng phụ nữ the thé vang lên sau lưng, dọa Tô Lăng và Lí Đại Hải dựng tóc gáy.

“Hả? Hai đứa bị sao thế?” Một người phụ nữ trung niên khoảng bốn, năm mươi tuổi thò đầu ra từ nhà bếp, khuôn mặt tròn trịa, đôi mắt nhỏ, nụ cười hiền lành dễ mến.

“Thím Trương! Thím làm cháu hết hồn!” Lí Đại Hải vỗ ngực thở phào một hơi thật lớn.

Thím Trương ngơ ngác: “Ban ngày ban mặt, sợ cái gì chứ?”

Tô Lăng lấy từ trong túi ra một chiếc khăn tay, lau mồ hôi lạnh ở trán.

Vừa rồi nhìn thấy một hàng bài vị tổ tiên, khung cảnh âm u lạnh lẽo khiến lòng dạ bồn chồn, giờ lại bất thình lình nghe thấy một giọng nói, không sợ mới lạ.

“Cháu là cháu trai của Tô nhị gia phải không?” Thím Trương bước đến hỏi rất thân thiện: “Đẹp trai quá chừng!”

Tô Lăng lịch sự đáp: “Chào thím, cháu là Tô Lăng.”

Thím Trương gật đầu lia lịa: “Chào cháu! Chào cháu! Thím họ Trương, cháu cứ gọi thím là thím Trương như thằng Đại Hải là được.”

Tô Lăng thuận theo: “Vâng, thím Trương.”

Thím Trương chưa từng gặp người thành phố nào vừa đẹp trai vừa lễ phép như vậy, nụ cười trên mặt càng thêm rạng rỡ.

“À… Tiểu Tô à, thím gọi cháu là Tiểu Tô được không?” Thấy Tô Lăng gật đầu, thím Trương tiếp tục nói: “Vừa nãy trong làng thím gặp ông Lưu, nghe ông ta nói cháu trai Tô nhị gia đến rồi nên thím qua xem thử.”

Tô Lăng kiên nhẫn chờ bà ấy nói rõ mục đích đến.

“Ấy da, thật ra cũng không có gì…” Thím Trương mặt dày mở lời: “Trước khi Tô nhị gia mất, thím vẫn thường đến giúp quét dọn nhà cũ, mỗi tháng được sáu trăm đồng tiền công. Nếu cháu không chê thì có thể tiếp tục thuê thím, trả năm trăm cũng được!”

Ở nông thôn không dễ kiếm việc làm, thím Trương làm ở nhà cũ họ Tô đã hơn mười năm, lương từ hai trăm tăng dần lên sáu trăm mỗi tháng, khiến người khác ganh tị. Ai ngờ Tô nhị gia nói đi là đi, bà ấy đột nhiên mất việc. Trông chờ suốt hai tháng, cuối cùng cũng đợi được cháu trai cụ đến, vừa nghe tin, bà ấy đã vội vàng chạy đến ngay, sợ bị người khác cướp mất việc.

Tô Lăng khẽ nhíu đôi mày thanh tú, quay sang nhìn Lí Đại Hải. Lí Đại Hải lanh lợi chớp mắt mấy cái.

Nhận được sự đồng ý của Lí Đại Hải, Tô Lăng mỉm cười nói với thím Trương: “Vậy làm phiền thím Trương rồi, cứ như trước đây, tiền công sáu trăm.”

Một sân nhà rộng lớn như vậy, một căn nhà lớn như thế, cậu đang lo không biết phải dọn dẹp thế nào thì đúng lúc có người đến giúp cậu giải quyết vấn đề.

“Vậy thì tốt quá rồi!” Thím Trương cười híp cả mắt. Bà ấy đã nói mà, cháu trai của Tô nhị gia cũng tốt bụng như ông ấy vậy. Chồng bà ấy khuyên đừng tự rước nhục, may mà mặt bà ấy đủ dày, tự đến xin việc nên mới giữ được công việc này.

Thím Trương là người siêng năng nên xắn tay áo lên bắt đầu làm việc.

Thấy trời đã về chiều, Tô Lăng bèn bảo thím Trương dọn dẹp gian nhà chính trước, cỏ dại ở sân trước và sân sau để mai hãy tính.

Điều đáng mừng là tuy ngôi nhà cổ mang phong cách xưa cũ nhưng vẫn có điện và nước.

Bận rộn đến khoảng bảy tám giờ tối, thím Trương dọn dẹp xong gian nhà chính thì về nhà cùng Lí Đại Hải, để lại một mình Tô Lăng cô đơn ngồi trước chiếc bàn vuông trong phòng ăn, nhíu mày ăn mì gói.

“Reng, reng…”

Chiếc điện thoại đặt trên bàn reo lên, Tô Lăng thấy cuộc gọi video WeChat đang nhấp nháy nên chạm tay vào, trong chớp mắt, gương mặt điển trai của Lâm Châu hiện lên trọn màn hình.

“Này, Tiểu Lăng.” Cậu ta vẫy tay chào.

Tô Lăng ngậm mì trong miệng, cầm điện thoại lên đưa về phía mình.

“...Cậu đang ăn gì đấy?” Lâm Châu trợn to mắt.

Tô Lăng hút sạch sợi mì vào miệng, vừa nhai vừa nuốt.

“Mì gói.” Cậu đáp.

“Mì gói? Mì gói! Mì gói…” Lâm Châu hét lên đầy sợ hãi: “Cậu, cậu là cậu ấm nhà họ Tô, mới về quê chưa đầy một ngày mà lại phải ăn mì gói ư???”

Tô Lăng đưa điện thoại ra xa một chút, bất đắc dĩ nói: “Có đồ ăn là may rồi.”

Cả thôn Khê Thạch chỉ có một tiệm tạp hóa nhỏ, bán đủ thứ linh tinh, Tô Lăng tiêu hết một trăm tệ mua vài món đồ sinh hoạt và mì gói, tạm coi như cầm hơi.

Lâm Châu vì cậu mà đau lòng không thôi, không chịu sống yên ở thành phố, nhất quyết về quê, để rồi bữa tối lại phải ăn một tô mì gói!

“Không gọi đồ ăn ngoài được à?” Cậu ta hỏi.

Tô Lăng: “Đồ ăn ngoài hả? Không có!”

Thôn Khê Thạch chỉ là một ngôi làng nhỏ lạc hậu, hẻo lánh, đến giao hàng còn không tới được thì nói gì đến đồ ăn ngoài?

“Thật thảm quá! Quá thảm luôn!” Lâm Châu rút khăn giấy ra, lau khóe mắt chẳng có giọt lệ nào.

Tô Lăng bật cười ngán ngẩm: “Cậu thôi đi là vừa.”

Lâm Châu hắng giọng hai tiếng, lấy lại vẻ nghiêm túc, nói đàng hoàng: “Tô Lăng, Lận Phong vừa gọi cho tớ.”

Tô Lăng khựng lại, chiếc nĩa nhựa trong tay rơi vào trong ly mì.